Open top menu
Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2013



                               CHƯƠNG 1





     Thời điểm Hà Nội 1950 -1954

              NHỮNG NGƯỜI BAO NĂM CŨ




Năm mươi năm trời khi đã trôi qua thì phải kể là những năm cũ, và những con người đã từng sinh hoạt với nhau trong thời điểm ấy phải là những người thuộc bao năm cũ. Tôi muốn nói đến những bạn bè văn nghệ vào thời kỳ họ còn trẻ trung, còn mang những tâm hồn tràn đầy tươi sáng và tấm lòng yêu văn chương nghệ thuật của họ còn đầy sôi nổi, nhiệt thành. Họ chính là những bạn đồng lứa, đồng hành với tôi, hoặc trước tôi chỉ vài ba tuổi và tất cả hầu như chỉ mới vừa mới chính thức bước vào làng văn hay mới chập chững những bước đầu tiên với ước mơ trở thành người cầm bút. Có người hiện còn sống, cũng có nhiều người đã vĩnh viễn ra đi. Tên tuổi của họ cho đến nay, có thể vẫn còn được độc giả nhớ đến nhưng cũng có nhiều bút hiệu hầu như nay đã bị vùi sâu theo dòng đời quên lãng. Đó là những Nguyễn Quốc Trinh, Hoàng Phụng Tỵ, Song Nhất Nữ, Nguyễn Nam Tê, Mọc Đình Nhân, Vũ Mai Anh, Hùng Phong, Kiều Liên Sơn, Huy Sơn, Hiệp Nhân, Lê Ninh, Hồ My, Song Hồ, Tạ Vũ..vân...vân...

Tại Hà Nội, vào thời điểm đầu thập niên 50, bọn trẻ chúng tôi đã bước vào thế giới của văn nghệ một cách vô cùng say mê. Tuy chưa bước qua hay vừa bước qua tuổi mười tám mà nhiều người đã có thơ, có văn, có truyện in trên báo hay thậm chí, in cả thành sách. Hùng Phong, bút hiệu của Nguyễn Đức Cầu, năm ấy mới là cậu học trò lớp đệ lục (năm thứ hai bậc trung học) mà đã được đăng một phóng sự dài nhiều kỳ lấy tên là Con Cò Mày Đi Ăn Đêm (viết về những đường dây buôn lậu từ hậu phương vào thành) trên tờ nhật báo Liên Hiệp của ông Soubrier Văn Tuyên. Rồi Vũ Mai Anh học trò lớp đệ ngũ Chu văn An được nhà xuất bản Chính Ký ở phố Sinh Từ in những tiểu thuyết Duyên Kiếp, Phũ Phàng; Hiệp Nhân lớp đệ tam tự in lấy truyện dài Linh Hồn Ngọc; Lê Ninh ra giai phẩm Lửa Lựu; Nguyễn Nam Tê vừa đạp xích lô, vừa làm thơ để ra tập Tin Về Đất Bắc; Mọc Đình Nhân in Hương Mùa Loạn; Nguyễn Quốc Trinh, Hoàng Phụng Tỵ ra chung tập thơ Ươm Đẹp; Song Hồ, Kiều Liên Sơn, Hồ My, Tạ Vũ v.v… có thơ in trên các báo như Tiểu Thuyết Thứ Bẩy, Hồ Gươm, Thời Tập, Tia Sáng, Giang Sơn, Liên Hiệp ở Hà Nội hay Thẩm Mỹ, Mùa Lúa Mới, Nhân Loại ở Sài Gòn.

Đất nước vào thời kỳ đó vẫn còn đang chìm đắm trong chiến tranh, nhưng sự tàn phá của nó so ra không bằng một góc của cuộc chiến Quốc Cộng vừa qua. Ở nhiều nơi, nhiều thành phố đời sống dân chúng vẫn mang vẻ thanh bình, và cái đời sống thanh bình của thuở ấy so ra không có những thay đổi khốc liệt hay những tệ nạn kinh hoàng như cuộc sống thanh bình ở quê nhà hiện nay.

Song Hồ Nguyễn Thanh Đạm hồi cư về sinh sống ở Hà Nội vào khoảng 1952. Hình như trước đó, năm 1949, tuy mới 16, 17 chưa tới tuổi thành niên nhưng anh đã là một chiến sĩ tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp. Lăn lộn qua nhiều chiến trường, lòng “anh chiến sĩ” không nguôi nhớ về Hà Nội. Chẳng hiểu chàng nhớ tới ai mà ngay giữa rừng thông Thái Nguyên, vùng núi rừng Việt Bắc, Song Hồ đã viết bài thơ đầu tiên mang tên “Thư Gửi người Em Hà Nội” trong có những câu :



            Anh viết lá thư về Hà Nội

            Giữa lúc bóng chiều

            Ngả mầu sắc tối

            Lòng người chiến sĩ căm căm

            Đã bao tháng năm ?

       Chưa bức thư nào


            Về thăm người em gái nhỏ


            Không biết anh đi từ độ nọ

            Người em còn nhớ tới không?

            Hay ở nơi đây

            Ánh sáng Kinh Thành

            Em cười trên tay kẻ khác

            Nhưng anh vẫn tin

            Tình em còn mộc mạc

            Như tình anh

            Mối tình giữa buổi chiến tranh…..



                                                           Song Hồ (1949)

           

            Sau này, khi trở về Hà Nội, Song Hồ tiếp tục đi học lại (trường Văn Hóa của Giáo sư Nguyễn Khắc Kham) và tiếp tục làm thơ. Thơ của anh khi đó không còn vấn vương tình ái nữa mà mang nặng tính cảm hoài về thời cuộc, thế sự :



            Đây Hà Nội  trời mưa tuôn rả rích

            Bê bết bùn lầy nước đọng nhớp nhơ

            Đèn nê-ông tỏa ánh điện xanh lơ

            Nhạc cuồng loạn, gót giầy lay lắc ván

            Một rồi hai, trăm ngàn rồi đến vạn

       Đèn nhạt đèn xanh đèn tím đèn vàng


           Nhạc điên cuồng vẫn réo rắt reo vang


Mầu biến đổi là lòng người biến đổi

Hiện dần trong bóng tối

Có người  con gái miền quê

Khăn yếm bỏ đi rồi

Làn tóc loăn xoăn

Đỏ mọng đôi môi

Chiều thứ bẩy

Giầy đinh vang hè phố…..

                                         Song Hồ (1953)



Nhắc đến Song Hồ thì sau này bạn bè không thể quên được bài thơ anh đã làm vào năm 1981, tuy ngắn gọn mà đã diễn tả được hoàn cảnh tan hoang, kinh hoàng, khốn khổ mà dân chúng miền Nam đã phải chịu đựng sau khi CS vừa tiến chiếm miền Nam :



HỠI EM NHỎ CÔ ĐƠN




Hỡi em nhỏ cô đơn!

Đang lang thang ngoài phố.

Em ơi đi đâu đó?

Cho ta hỏi đôi lời:

- Cha đâu? - Bị cải tạo !

- Mẹ đâu? - Buôn chợ trời !

- Anh đâu? - Ở Cam Bốt !

- Chị đâu? - V­ượt biên rồi !

- Ông đâu? - Đấu tố chết !

- Bà đâu? - Buồn qua đời !

- Cô đâu? - Kinh tế mới !

- Bác đâu? - Tự tử rồi



Thôi ! thôi ! Không hỏi nữa !

Tim ta quá bồi hồi



Sao em còn nhỏ tuổi

Đã biết nhiều chuyện đời 

Sao mảnh đất nhỏ bé

Xẩy nhiều chuyện rụng rời….

…….

                                   (1981)





Trở lại khuynh hướng sáng tác của những người làm văn nghệ trẻ ở thời kỳ giữa thập niên 50, khoảng từ 1951 đến 1954, ngoài ca ngợi tình yêu, quê hương, đất nước, nội dung sáng tác cũng đã mang nhiều dấu tích xã hội vì họ cũng suy tư về các hoàn cảnh sống lầm than, những cuộc đời bị đối xử bất công, bị chìm đắm trong sự cùng quẫn nghèo khó. Nhẹ nhàng mang tính chất học trò nghèo khó thì có những câu thơ của Tạ Vũ viết năm 1952:

Bạn ơi

Trên trang giấy trắng,

Dòng mực chảy đều

Tai nóng bừng vì bài toán không ra

Có nhớ đến tôi

Bỏ trường - không học phí

Duyên thế hệ thôi từ nay cách biệt !

           

Tạ Vũ mồ côi cả cha lẫn mẹ, sống nhờ bà dì, có lúc lại vào nằm ở khu nuôi trẻ không nhà trong chùa Tầu gần phố Sinh Từ Hà Nội, chen chúc cùng với đám mồ côi cùng lứa tuổi để viết những dòng thơ như sau :

Ánh đèn không soi mái phố

Linh hồn dắt díu về đây

Chăn đâu cho đầy giấc ngủ !

Nôn nao cơm lưng dạ dầy !



Thao thức nằm nhìn bóng tối

Nghẹn ngào khóc dưới cửa ô

đêm mơ thấy đời đổi mới

Sáng ra buồn hơn bao giờ ....

           

50 năm trời không gặp lại, nhưng tôi được biết, sau này Tạ Vũ vẫn tiếp tục làm thơ, và anh đã có thời nổi tiếng là một thi sĩ của những công nhân trong ngành khuân vác.

Sâu sắc, già giặn hơn Tạ Vũ của năm 1953 thì có Song Nhất Nữ vơi bài Cửa Ô cũng được chúng tôi truyền tụng trong thời kỳ ấy :



Cửa Ô

(Gửi năm Cửa Ô Hà Nội)



Mầu sắc u huyền,

Đất trời nghiêng ngửa,

Đô thành bừng lửa.

Ngoại ô này lành lạnh sống trong đêm...



Ánh đèn le lói

Chìm đắm triền miên

Nơi đây son phấn,

Nơi đây kim tiền,

Nơi đây trụy lạc,

Nơi đây nghèo hèn

Đêm về những giấc mơ điên

Đêm về ngùn ngụt túi phiền lầm than

Đêm về vàng bệch đèn tàn

Đêm về điên loạn cung đàn xót xa

Cửa Ô xa...

Có nhiều bóng ma...

Đi trong bê tha...

Đi trong xênh phách

Đi trong đói rách

Đi trong lệ nhòa

Thất thểu... la cà...

Bóng ma... bóng ma...



Đâu đây vàng ngọc lụa là,

Cửa ô... ngõ hẻm... a ha! Cuộc đời!



                                       SongNhất Nữ

                                       1953   (Nhựa Mới)



Nguyễn Quốc Trinh, tác giả tập thơ Ươm Đẹp ngoài những vần thơ trữ tình:



Hoa bừng dưới gót em qua

Tôi cười dưới gót em xa

Bát ngát Thơ ngân tiếng guốc

Đường hương mở đón chân ngà,



chàng trai ấy  cũng có khuynh hướng xã hội như bài thơ Dễ Hiểu sau đây:



Dễ Hiểu



Vì mải gò lưng kéo

Cày cho kẻ khác no

Chiều về nhai cỏ héo

Chuồng hẹp nằm co ro



Vì sống như trâu bò

Kiếp này sang kiếp khác

Cha già cha phát ho

Mẹ già xương xộc xạc



Vì đời buồn xơ xác

U ám như đêm nghèo

Mồ hôi chua áo rách

Muối mặn quả cà meo



Hoa đẹp nở vườn nào

Thơ bầy trong tủ kính

Con choắt vợ xanh xao

Ngựa xe người đủng đỉnh



Vì tôi muốn anh muốn

Vì chúng ta cùng muốn

Đêm già: xô ngã xiên !

Ngày non:  cười thẳng dướn !



                             NGUYỄN QUỐC TRINH

                                      (Ươm Đẹp-1953)

                       

Một nhà thơ khác cũng rất nổi tiếng trong giới bạn bè non trẻ chúng tôi là Nguyễn Thị Hồ My (sau đổi thành Hồ My). Đó chẳng phải là một nhà thơ nữ mỹ miều nào mà chỉ là bút hiệu của một chàng thư sinh cũng đang mài đũng quần ở bậc trung học. Cái sự tuy là nam nhi mà lại ưa lấy bút hiệu phái nữ hình như là một cái mốt của đám sáng tác trẻ trung ở thời kỳ đó, như Song Nhất Nữ  là bút hiệu của anh Đặng Bá Ngư (nay anh đã không còn nữa) hay Nguyễn Thị Yếm Thắm là bút hiệu của Nguyễn Yên Tri, một anh chàng học trò cùng lớp, cùng trường với tôi từ khi còn ở bậc tiểu học. Xin nhắc lại một bài thơ của Hồ My sáng tác năm 1953:



Đi Đêm

Viết tặng người lầm than



Bên mái hàng hiên

Một bóng người thấp thoáng đi đêm

Gót mòn xiết tiếng rên rên,

Như khóc cuộc đời tăm tối.

Đêm nay dưới ánh đèn le lói

Bóng mẹ già, vợ dại, con thơ,

Đang bơ vơ

Đang thao thức

Đang rạo rực

Đang mong chờ

Nóng lòng mong kẻ bên bờ đường khuya.



Tiếng guốc kéo lê thê

lóc cóc

lách cách

Như nửa tỉnh nửa mê

Đau thương lên bước bên hè

Đêm dài, phố vắng, đường khuya một mình



Bên hiên cố ý hay vô tình

Guốc lê mãi gieo buồn người mất ngủ

Mẹ già, con nhỏ.

Vợ dại ai nuôi!

Lang thang giữa lúc tối trời

Lệ trào mặn chát trên môi!

Vang hè phố vắng

Tiếng bước vọng xa xôi



Chập chờn chiếc bóng chơi vơi

Hỡi ôi! Thương lấy kiếp người đi đêm.



                                                HỒ MY

                                              Ngoại Ô Hà Nội 20-10-53

                                            (Báo Tia Sáng / tháng 10-1953)

****

    Bây giờ là thời điểm tháng 12 năm 2002, kể như là 50 năm tròn đã trôi qua. Ngồi đọc lại những tác phẩm cũ của bạn bè bao năm cũ, tôi như sống lại cái không khí của một thời “Ươm đẹp”, cái thời mà cũng đã từng có nhiều chàng trai vừa lớn, mang những ước mơ dùng văn chương nghệ thuật để làm đẹp cho cuộc đời, mong cuộc đời vơi đi những nhọc nhằn, những bất công, những nghèo hèn, những thiếu thốn.

Nhưng nằm giữa lòng Hà Nội vào một đêm của thời điểm năm 2000, tôi vẫn còn nghe thấy tiếng rao hàng trong ngõ hẻm của một ngày đông lạnh giá. Tiếng rao sà sã cố ngoi lên từ một làn hơi đã sắp tàn lụi đập vào cái tĩnh lặng của nửa khuya về sáng nghe ai oán  như tiếng vạc kêu  đêm,  nó cũng ám ảnh giấc ngủ của tôi như tiếng guốc kéo lê trên hè phố mà Hồ My đã diễn tả cách đây một nửa thế kỷ. Nghĩa là vẫn còn có những cuộc sống lầm than ngay giữa lòng Hà Nội dù 50 năm trời cách biệt đã trôi qua. Đó là chưa kể tới những cảnh huống đau lòng khác mà xưa nay chưa bao giờ có,  như bán máu trở thành một phương tiệân kiếm sốùng, bán thân xác cho đàn ông Đài Loan, Trung Quốc dưới danh nghĩa đi làm dâu xứ người và trong lòng của những thành phố sa hoa rực rỡ, có những kẻ đốt tiền bằng cả năm lương của người lao động để mua một trận cười. Như thế, những hình ảnh Cửa Ô xa của Song Nhất Nữ: Cửa Ô xa... Có nhiều bóng ma... Đi trong bê tha...Đi trong xênh phách Đi trong đói rách Đi trong lệ nhòa Thất thểu... la cà... Bóng ma... bóng ma... nào có khác gì hình ảnh của những con người thất thểu đi trong bóng đêm của các thành phố bây giờ, ngủ dưới gậm cầu, chen chúc nhau dưới những mái hiên hay lang thang trên những đống rác cao ngút đầu để xăm xoi đào bới.

Hà Nội vào những năm đầu thiên niên kỷ 21 còn nhiều bất công, nhiều chênh lệch, nhiều hoàn cảnh xót xa, não lòng hơn 50 năm trước. Những câu thơ của Nguyễn Quốc Trinh viết từ 50 năm trước bỗng trở thành những lời như vừa được sáng tác gần đây :

                      Vì mải gò lưng kéo

                      Cày cho kẻ khác no

                      Chiều về nhai cỏ héo

                      Chuồng hẹp nằm co ro!

        Tôi không hiểu tuổi trẻ Hà Nội bây giờ có ươm những giấc mơ làm đẹp xã hội như những tuổi trẻ Hà Nội thời 50 năm trước hay không? Họ bị chèn ép để không còn sáng tác được hay lòng họ đã lạnh tanh trước những biến đổi phũ phàng của thời kỳ kinh tế thị trường, hay vì cả hai? Nhưng dù là vì bất cứ lý do nào thì khi mở lại những trang sách cũ, tôi không khỏi bùi ngùi nhớ lại những con người của bao năm cũ. Thành phố xưa bây  giờ đã có biết bao nhiêu thay đổi. Hồ Gươm xưa hẳn đã chứng kiến biết bao nhiêu vật đổi sao dời. Tôi mong mỏi thế hệ trẻ bây giờ đừng bao giờ lạnh tanh trước những nỗi bất công của đời sống, trước những hoàn cảnh thống khổ của con người, bởi vì thế hệ chúng tôi, vốn cũng mang nhiều xót xa, buồn bã nhưng bao giờ cũng ngước lên nhìn cuộc đời với ánh mắt tin tưởng, tin ở đất nước, tin ở con người, và dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn  tìm mọi cơ hội để vươn lên.

                                        

                                       (còn tiếp)                                     

                                                       
      

0 nhận xét