Open top menu
Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2013



                                                                                    
                                                     (tiếp theo)
                                                                                              nhà văn NHẬT TIẾN


                                                          19

                                             NGƯỜI  BẠN CŨ

Trừ năm 1976, dân chúng miền Bắc vào Nam tìm thăm thân nhân ngày càng đông. Trong dịp này, tôi cũng có cơ hội được gặp lại Duy, một anh bạn kể như  là một trong ba người bạn thân thiết nhất từ thời còn cắp sách đền trường, trong những năm theo bậc trung học.
Hồi đó, hầu như  ngày nào chúng tôi cũng gặp nhau. Ban ngày thì cặp kè trên đường đi học. Buổi tối sau khi cơm nước xong lại đã tìm đền nhà nhau, khi thì trao đổi bài vở nhà trường, khi thì bàn luận với nhau đủ thứ chuyện trên trời dưới biển. Tôi học được ở Duy rất nhiều điều. Chẳng những  vê luận văn đã rất khá, anh còn có biệt tài viết Nhật Ký rất lưu loát, rất chăm chỉ đều đặn. Hầu như  anh không bao giờ bỏ sót một ngày nào là không ghi chép một, hai trang . trong cuốn sổ riềng của mình. Tôi thực tình không hiểu anh tìm ở đâu ra mà lắm ý tưởng để có thể viết được bền bỉ đến thế. Có đôi lần anh mở hé cho tôi đọc một vài trang. Cũng cỏ khi anh chỉ thuật lại cho tôi nghe vài ý tưởng mà anh vừa ghi chép xong. Tất nhiên là tôi chẳng thề nhớ được điều gì, nhưng anh đã để lại trong đầu óc tôi một ấn tượng về con người của anh, đa sầu đa cảm, hay tự đặt ra cho mình những thắc mắc vẩn vơ rồi tự lý giải lấy cho mình. Còn tình yêu của anh thì cũng rất phong phú. Tôi thấy nhiều lần anh khoe là đã bị ngây ngất vì một hình bỏng nào đó. Có người thì anh mới thoáng nhìn thấy là đã yêu rồi mặc dù chưa hề biết gốc gác của người ấy ra sao. Có người thì anh biết chỗ ở, biết thói quen ra vào, biết cả ngôi trường cô ta đang học nhưng có mỗi cái tên thì anh chưa “điều tra" ra. Vậy mà hình bóng của cô cũng đã chiếm nhiều trang giấy trong tập nhật ký của anh. Cái cung cách vung vít tình cảm một cách vô cùng lãng mạn ấy, thật không còn từ ngữ nào đúng hơn mâ tôi gán cho anh, đó là con người của anh "đặc sệt chất tiểu tư sản". Khi Hiệp định Genève được ky kết vào tháng 7 năm 1954, tôi theo gia đình vô Nam, còn anh thì ở lại Hà Nội. Tnrớc lúc chia tay, chúng tôi~chỉ còn kịp kéo nhau đi tiệm chụp chung một tấm hình. Khi ảnh được rửa ra 2 tấm, chúng tôi cùng ghi ở phía sau một lời hẹn hò: "Hai năm sau chúng mình sẽ gặp  lại. ".
Cái mốc thời gian ấy chẳng bao giờ tới cả . Vì năm 1955, ông Phạm văn Đồng có gửi thư cho thủ tướng Ngô Đình Diệm, yêu cầu mở hội nghị hiệp thương để bàn về việc tổng tuyển cử nhằm thống nhất đất nước. Nhưng Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã bác bỏ đề nghị này dựa vào lý  do chính phủ QGVN không ký vào hiệp định Genève và nhất là vì không có bằng chứng nào cho thấy miền Bắc đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi Quốc tế Cộng sản .Thế là cuộc chia tay hẹn hò "hai năm"giữa hai chủng tôi phải đợi mãi hơn 20 năm sau chúng tôi mới có dịp gặp lại tại căn nhà của tôi ở bên Gia Định. Mà Duy lại đã xuất hiện rất bất ngờ, không hề loan báo trước. Trên tay anh chỉ có mảnh giấy có vài chi tiết của một bản đồ vẽ nguệch ngoạc. Chắc là ai đó ở Hà Nội đã cho anh địa chỉ của tôi và anh đã mò mẫm tìm được tới . Khi anh sừng sững bước vào, tôi không thể nhận được ra anh. Có vê như  anh cố tình không nói năng thêm gì để xem tôi có nhận ra anh hay không. Phải mất cả phút đồng hồ để đầu óc của tôi bới tung quá khứ mong tìm ra một tên tuổi quen thuộc. Rồi tôi buông một câu sững sờ :
- Duy phải không ?
Chúng tôi mừng tủi nắm chặt tay nhau. Cái hẹn hai năm tính ra đã tới hai mươi hai năm mới được thực hiện. Bây giờ thì tôi có thế nhìn ngắm kỹ để quan sát những đổi thay ở người bạn cũ. Anh già hơn trước dĩ nhiên, nhưng tôi không thể ngờ anh lại có thể già đến thế. Mới ngoài bốn mươi mà tóc của anh đã nhiều sợi bạc, nước da trắng trẻo rất công tử bột ngày xưa nay đã khô cằn và đen sạm. Nhưng sự thay đổi nơi anh rõ nhất là ở nụ cười. Gặp nhau vui vê sao nụ cười của anh vẫn héo hắt như chỉ cố gượng vui. Ngay cả khi anh nói chuyện, tôi thấy anh luôn có vẻ ngập ngừng. Đâu rồi người bạn năm xua của tôi với đủ tính chất hồn nhiên, tươi trẻ, năng nô, ồn ào ?
Tôi giữ anh lại suốt một ngày để có dịp .hàn huyên mặc dù nhiêu lúc anh nằng nặc đòi ra đi, như  thể sự lưu lại bất an này đã đem lại cho anh nhĩmg cảm giác bất an. Trong tình cảnh như  thế, câu chuyện giữa hai chúng tôi tất nhiên sẽ chẳng hào hứng gì như  khởi đầu tôi đã nghĩ. Tôi tưởng rằng sau ngần ấy năm xa cách, chúng tôi sẽ có biết bao nhiêu câu chuyện để hàn huyên, bao nhiêu nỗi niềm để chia sẻ. Nhưng niềm vui của tôi cứ bị vơi lụi đi dần khi thấy cung cách trò chuyện của anh không có vẻ tự nhiên. Thỉnh thoảng, một người trong gia đình tôi đi ngang qua thì dù đang nói gì anh cũng im bặt, đôi mắt láo liên, liếc ngang liếc dọc cứ như  một kẻ phạm tội luôn luôn lo lắng mình bị rình mò.
Nhưng dù giữ ý cách nào thì anh cũng tiết lộ cho tôi được biết nhiều chi tiết buồn thảm trong đời sống của anh. Người anh cả của anh trước đây là một quân nhân phục vụ trong ngành Quân Thứ Hành Chánh Lưu Động (GAMO -Groupe Administratif Operationnel) một loại tổ chức gồm cả quân sự lẫn chính trị do Pháp tài trợ có nhiệm vụ tổ chức và bảo vệ cơ quan hành chánh tại xã ấp của những vùng đã được quân đội Pháp chiếm lại khỏi tay Việt Minh Cộng sản. Cũng như  số phận của tất cả những cựu quân nhân, công an, canh sát hay công chức thuộc chế độ cũ, người anh của Duy đã bị gọi đi trình diện và không có ngày trở về. Sự kiện này đã giáng một đòn rất mạnh vào tâm lình của Duy. Đã thế, đời sống của gia đình Duy cũng bị gắn liền với cái lý lịch "ác ôn"' của người anh cả của mình mà thêm khốn đốn; Tôi không rõ Duy đã phải phấn đấu đến thế nào đê có thể tồn tại cho tới ngày nay, nhưng con người của anh thỉ đâ bị tàn phá thấy rõ. Anh luôn có vẻ rụt rè, bất an, không bao giờ nói năng đến hết lời, hết ý của mình vì cứ đang nói đến nửa chừng thì anh chợt ngửng lại, như  đê đón ý nguời nghe. Con người tự tin, phóng khoáng, sẵn sàng biểu lộ hết ý nghĩ của mình mà không cần phải quanh co, giấu giếm nay đã không còn.
Sau này thì tôi có thể xếp loại anh vào hàng ngũ một số trí thức miền Bắc, những người không hề có tí chức vụ hay quyền năng nào nhưng cũng chẳng muốn bon chen phấn đấu để mong kiếm chác thêm đôi chút bổng lộc gì. Họ trái với nhiều người khác, tuy chức vụ hay quyền năng thì cũng chẳng hơn gì ai, nhưng lại sẵn sàng bán rẻ linh hồn vì chút danh vọng hay quyền lợi. Đây là hàng ngũ những kẻ sun soe, những chuyên viên đội đạp và là tác giả của những bài viết ngồi xổm lên sự nguyền rủa của dư luận vì tính cách bịa đặt hay xuyên tạc trắng trợn của nội dung bài viết.
Tôi thương hại cho Duy nhưng cũng mừng cho anh. Cái vốn Tiểu tư sản cuối cùng mà anh còn lại đã khiến anh không đến nỗi phải đi bán rẻ linh hồn cho dù con người đích thực của anh đâ chẳng còn tồn tại lừ bao nhiêu năm nay rồi. Hôm chia tay, lôi gửi anh một gói quà, trong có vài món đồ dùng lặt vặt kèm theo vài cuốn sách cũ mà tôi nghĩ rằng anh sẽ thích đọc. Nhưng anh đã mở cái gói ra kiểm điểm lại từng món (một hành vi chẳng còn tiều tư sản chút nào !) và bỏ lại mấy cuốn sách. Tôi nói :
- Sách này vô thưởng vô phạt, tôi mua lại trên vỉa hè Sài Gòn, không sao đâu.
Anh mỉm cười héo hắt :
- Đem về chật va li. Để dành chỗ cho líp xe, đá lứa và bút bi còn giá trị hơn.
Tôi ngạc nhiên:
- Bút bi mà cũng có giá kia à ? '
- Có giá chứ ! Nhất là bút bi  đỏ. Nhiều thầy cô ngoài đó thiếu cả bút mực đỏ để chấm bài cho học trò.
-  Sao năm nào tới Ngày Các Nhà Giáo cũng thấy Nhà nước ra hiệu triệu khoe là hết lòng chăm lo đời sống của Thầy Cô.
Duy ngần ngừ rồi đạp : .
 - Thì cũng có đấy, nhưng tùy mức độ.
Tôi rất không ưa cái lối trò chuyện lấp lửng này (mà tôi đã gặp ở nhiều người chứ chẳng riêng gì Duy), nên hỏi tới :
- Tùy mức độ là có hay không ? .
- Có chứ !
- Vậy đời sống giáo viên ngoài ấy được chăm lo đến mức nào ?

                                 (còn tiếp)

0 nhận xét