Open top menu
Thứ Ba, 20 tháng 8, 2013



                                             (tiếp theo)

Và nhà văn Mai Thảo viết :

Những trong nắng và những ngoài nắng ấy, Nhật Tiến đã thấy đã trải qua, đã viết ra, đã thuật lại. Gọi đó là nắng cáo trạng, nắng bạch thư, gọi đó là nắng Ko Kra, nắng Nhật Tiến. Trước cái khuynh hướng muôn thuở của con người là sự kiếm tìm những tàn cây đầy bóng mát cho tâm hồn và đời sống văn chương bây giờ của Nhật Tiến, những vận động, những lên tiếng không ngừng của Nhật Tiến cho thấy ông vẫn lựa chọn đứng ở đó. Ngoài nắng. Giữa nắng. Thái độ ấy có thể bị nhìn là khô cứng quá khích. Hoặc với những tâm hồn bóng rợp là một đọa đầy vô ích. Tôi chỉ nhìn thấy tự nhiên và bình thường nơi người nhà văn lưu đày ở Nhật Tiến một ý muốn. Cái ý muốn được đứng cùng, đứng mãi với vượt biển thê thảm như đứng với quê nhà, với Việt nam

Có một sự kiện mà rất nhiều sách vở hoặc tư liệu ghi chép lại. Ðó là bài điếu văn nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam mà nhà văn Nhật Tiến đã ứng khẩu khi hạ huyệt.

Nhà văn Nhất Linh là một lãnh tụ đối lập với chính quyền của tổng thống Ngô đình Diệm. Ngày 7 tháng 7 năm 1963 ông bị đưa ra tòa để xử án nhưng ông đã tự quyên sinh để phản kháng và cho rằng đời ông chỉ có lịch sử phán đoán công tội mà thôi và hành động đàn áp đối lập bắt giam những lãnh tụ quốc gia sẽ làm cho mất nước về tay Cộng Sản. Ðám tang của ông bị mật vụ bao vây vì chính quyền không muốn bị tai tiếng với dư luận quốc tế nhưng lại có nhiều thanh niên, sinh viên học sinh đến đưa tiễn. Nhà văn Nhật Tiến ở trong phái đoàn của Trung Tâm Văn Bút Việt Nam với tư cách là Phó chủ tịch nên có mặt lúc hạ huyệt và ông đã ứng khẩu bài điếu văn và đọc như là một cách thế phản kháng của người cầm bút trong hoàn cảnh thời thế ấy. Trong khi nhiều lãnh tụ đảng phái bị bắt giữ và các văn nghệ sĩ bị theo dõi thì hành động kể trên phải được coi như một phản ứng can đảm của kẻ sĩ không ngại ngùng trước bạo lực vì có thể bị bắt giam bất cứ lúc nào.

Nhà văn Nhật Tiến là một thành viên nòng cốt của Ủy Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển (Boat People S.O.S Committee) và Ủy ban này đã viết bạch thư để phổ biến trên khắp thế giới thân phận bi đát của thuyền nhân Việt Nam vì tệ nạn hải tặc. Những công việc ấy đã có kết quả lớn, làm thế giới hiểu được tệ trạng hải tặc và đánh động được lương tâm của nhân loại để cứu giúp thuyền nhân. Nhà văn Nhật Tiến đã hy sinh công sức đi khắp nơi trên thế giới để xin thế giới hỗ trợ. Có lẽ cái nắng của đảo quỷ Ko Kra vẫn còn rát bỏng đôi vai ông để ông tích cực làm một công việc nặng nề như thế?


Thời gian 1960-1975 là một thời kỳ bất hạnh của dân tôc Việt Nam. Chiến tranh gây ra bao nhiêu là tàn phá và chết chóc. Sống trong những bi thảm ấy, nhà văn Nhật Tiến chắc cũng có những suy tư về cuộc chiến này và có những tác phẩm mà chủ đề về cuộc chiến đã qua.

Ông cũng đã nhìn ngắm cuộc chiến bằng những tác phẩm độc đáo mà tiêu biểu là tiểu thuyết “Giấc ngủ chập chờn” và tập truyện ngắn “Tặng phẩm của dòng sông”.

“Giấc ngủ chập chờn” là tiểu thuyết viết về đời sống của những người ở vùng “xôi đậu”, ngày thì quốc gia giữ an ninh nhưng đêm thì du kích Việt Cộng về quấy phá. Câu chuyện nói về thân phận xót xa của những nạn nhân bị đẩy vào một cuộc chém giết mà không một ai muốn . Ðối thủ với nhau, chong họng súng vào nhau mà lại là những đứa bạn thời thơ ấu,  những đứa cùng ngồi với nhau trên băng ghế nhà trường. Họ chém giết lẫn nhau, để càng ngày trên cuộc đời này dần dần vắng đi những khuôn mặt, những con người của một thuở nào thơ ấu ngày xưa. Không có bi thảm nào hơn khi hai anh em ruột mà lại ở hai bên chiến tuyến và đe dọa giết nhau còn hơn quân thù là hai anh em Hoành và Há. Và, cuộc tình thời chiến cũng là cuộc tình tay ba giữa hai anh em và Thư. Rốt cuộc Hoanh bỏ đi biệt kích Mỹ, còn Thư thì nhìn quang cảnh của một thị xã chiến tranh và đi lên tỉnh để rời xa một nơi mà những tấn thảm kịch đã đổ xuống đầu những người dân quê khốn khổ một cổ hai tròng.

Hình như về sau này khi Việt Cộng đã chiếm được miền Nam thì nhà văn Nhật Tiến đã bị hạch hỏi nhiều về cuốn tiểu thuyết “ Giấc ngủ chập  chờn ” này.



***

Ông có những truyện ngắn như Tặng phẩm của dòng sông, Giọt lệ đen, Đường vào trần gian.... mà chủ đề xoay quanh những thảm cảnh của thời chiến. Truyện Tặng phẩm của dòng sông là chuyện của con bò bị chết trôi theo dòng sông tấp vào chân cầu và bị những người dân quê đang tan tác trong lửa đạn đem lên xẻ thịt để ăn .. Truyện Giọt Lệ Ðen là chuyện một cô gái điếm thời lính Mỹ còn ở VN, khi xẩy thai đem chôn cái hài nhi có nước da đen nhẫy, còn truyện ngắn Đường vào trần gian thì diễn tả hoàn cảnh của hai angm mồ côi Tư Híp  và Út. Tư Híp đến tuổi phải vào lính và phải mang thằng Út vào trại và nhờ có Hiên làm trong nhà bếp để săn sóc thằng nhỏ trong khi người anh bận hành quân xa. Những hoàn cảnh dị thường của chiến tranh.


Sáng tác đầu tay về Kịch của nhà văn Nhật Tiến là một vở kịch vui ông viết khi còn ở tuổi học sinh như đã nói ở trên. Sau này, năm 1962, ông cũng còn  soạn kịch cho tráng đoàn Hướng Đạo Bạch Đằng, vở Cơn Giông trình diễn ở rạp Thống Nhất  Sài Gòn để lấy tiền giúp đồng bào bão lụt miền Tây. Ngoài ra, ông còn  một tác phẩm khác ang quan đến kịch là cuốn tiểu thuyết kịch Người Kéo Màn.

Tại sao gọi là tiểu thuyết kịch?

Ðó là một kỹ thuật kịch khá mới đối với nghệ thuật Việt Nam. Ông mang những yếu tố của tiểu thuyết vào kịch, sử dụng phương pháp tả cảnh xen lẫn vào trong phần đối thoại kịch của từng nhân vật và từ đó ở những không gian, thời gian khác nhau để ngắm nhìn sự kiện như một góc độ để nhận định và diễn tả.

Người Kéo Màn viết về xã hội và môi trường của những nghệ sĩ mà những nhân vật như ông lão kéo màn, người nhạc sĩ thổi kèn clarinette, đứa bé, cô gái còn trong trắng, chỉ là những tượng hình để người kéo màn nói đến cuộc đời với những sự sắp xếp của định mệnh. Từ những góc cạnh nhìn ngắm, cuộc sống trải ra nhiều mặt mà cái giả tạo hào nhoáng bên ngoài đã che lấp đi cái phần chân thực bên trong. Cuộc đời như một vở kịch, với những nét đẹp đẽ hào nhoáng ở ngoài tiền trường sân khấu nhưng ở bên trong lại là những phản diện đen tối đến không ngờ được. Những nhân vật hành xử và đối thoại nhiều khi đối nghịch với nhau và ở trong những chi tiết thực của cuộc sống để tượng hình cái giả của vở kịch. Người viết kịch nhiều lúc muốn là một diễn viên trong vở kịch và thôi thúc người đọc, người xem gia nhập vào vở kịch như đang sống một ngày, một tháng của cuộc sống chính mình đang diễn ra từng giờ từng phút.

Nhật Tiến còn là nhà văn xã hội mà tác phẩm tiêu biểu nhất là Thềm Hoang. Tiểu thuyết này đã đoạt giải văn chương toàn quốc năm 1962. Thềm Hoang là một tiểu thuyết lấy khung cảnh của một xóm lao động nghèo nàn ở ven biên một thành phố. Những nhân vật của truyện này là những người nghèo thất học và ngôn ngữ của họ là sự pha trộn một cách dung tục ngôn ngữ của hai miền Nam Bắc. Cái đặc sắc của tiểu thuyết này là tác giả đã phác họa ra những mẫu nhân vật đặc biệt với cá tính riêng và đầy chất sống động chân thực như cuộc sống lầm than của họ đang diễn ra ang ngày.


Trong một bài viết đăng trên tạp chí Văn Học, ông có giải thích tại sao lại chọn nhan đề Thềm Hoang. Khởi đầu khi viết, ông chỉ ang hai chữ đó để ám chỉ một xóm nghèo, mà những túp lều là nơi sinh sống của những người bất hạnh sống bên lề xã hội như những thềm đất hoang sơ bị bỏ rơi quên lãng trong một xã hội sa hoa sung túc. Nhưng, khi kết cuộc cuốn tiểu thuyết này, nhân vật Năm Trà bị phẫn uất đau đớn đến tột cùng nên đã châm lửa đốt rụi cả xóm Cỏ. Và như thế, cái xóm ấy đã thành một mảnh đất đầy tro bụi của những thềm hoang..

Trong tiểu thuyết ấy, có những nhân vật đặc biệt và những ngôn ngữ đặc biệt.

Nhà văn Nhật Tiến đã tạo dựng ra những mẫu nhân vật thật sống động. Họ ang những ngôn ngữ đời thường, của những người Bắc di cư vào Nam pha trộn với ngôn ngữ địa phương. Như cô Huệ với ngôn ngữ chanh chua của một gái điếm:

- Mệt không cô Huệ ơi!

Vẫn cái tiếng chanh chua của Huệ:

-        Mệt cái phải gió, cha tổ bố, ít tiền mà cứ muốn của đẹp!

Hay Lão Hói với những câu thơ mà ông ta ang nghiệm như một thuyết lý của định mệnh: tất cả đều có ông trời hết:

Ngọc xuất thiên cung thủ quả châu

Hoàng thiên thương mến quả địa cầu.

Giáng tạo thay đời không tranh đấu

Thế giới thanh bình khỏi thuế sâu..



“ Lão Hói rúc lên cười, hai hàm răng của lão nhô ra, hở hết cả lợi:

-Ông trời chớ ai! Ông trời chớ ai!

-Vậy ai sinh ra ông trời kia chớ?

-Ý! Trời đất ơi! Ðã là ông trời thì ai sinh được ổng nữa cơ chớ ổng là nhứt hết thảy mà..

Huệ phản đối lão bằng cách lấy chân đá một viên sỏi nhỏ về phía lão rồi bỏ đi. Mùi nước hoa thoang thoảng trong gió mát làm mũi lão hếch lên. Lão lim dim nhìn cái mông của nàng ngúng nguẩy theo nhịp bước. Lão nhớ đến câu hát của bác Tốn vẫn thường gảy đàn, giọng vọng ra:

-        Cô Huệ ơi

Nếu cô lấy tôi thì tôi xây nhà gạch hai tầng

Tôi mua ô tô angm ngự, mua váy đầm angm thay…

Rồi những nhân vật khác: Hai Hào, Ðào, Phó Ngữ, bác Nhan, vợ chồng Năm Trà, Cái Hòn, Thằng Ích, U Tám ,.. tất cả những nhân vật ấy sinh hoạt , chửi rủa nhau, giúp đỡ nhau, và cùng chia sẻ với nhau những mảnh đời sống của một xóm nghèo bình dân.

Bà Thụy Khuê nhận xét rằng Thềm Hoang là một tác phẩm không viết về chiến tranh nhưng chống chiến tranh và là một tác phẩm có ý hướng hòa giải hòa hợp dân tộc. Có người đã hỏi tôi có suy nghĩ nào về nhận xét này.

Tôi đọc Thềm Hoang từ lúc còn đi học và lúc đó thì chiến tranh chưa ang nổ lớn và những cái gọi là hòa giải hòa hợp dân tộc còn xa lạ. Thành ra, tôi rất ngạc nhiên khi đọc những nhận xét của bà Thụy Khuê mà có người thắc mắc ở trên. Tôi nghĩ đó có thể là một cách suy nghĩ đi quá xa trong hoàn cảnh nhà văn Nhật Tiến ang tác lúc đó. Thời gian mà nhà văn Nhật Tiến viết Thềm Hoang là thời kỳ đệ nhất Cộng Hòa của chính phủ tổng thống Ngô Ðình Diệm. Lúc này cả một triệu người miền Bắc di cư vào miền Nam và đang tạo dựng lại đời sống. Thành ra, ngôn ngữ của những nhân vật Xóm Cỏ pha âm hưởng của nhiều địa phương và có nhiều ngôn ngữ dung tục nhưng được tác giả sử dụng rất tự nhiên nên có sức sống động và lôi cuốn. Như “nói như bố chó xồm” của bác Tốn, như “khí gió đùng lăn chửa” của Huệ, như “chế nhạo cái gì, chế cái nỗ đít” của Hai Hào…

Nếu phát biểu một cách rốt ráo thì, với Thềm Hoang, tôi nghĩ đó là một tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nhật Tiến. Có thể, trong truyện có nhiều hư cấu nhưng với tôi lại có chất tả thực nhiều hơn. Viết về một xã hội bất hạnh như thế, phải là người đã sống và đã có những cảm giác chân thực của người đã trải qua. Tôi cũng có lúc ở một xóm lao động như xóm Cỏ nên khi đọc những trang sách thường hay hồi tưởng về những tháng ngày cũ. Ở đó, người dân sống tạm bợ qua ngày, và có lúc dù xích mích nhau hay chửi bới nhau nhưng vẫn đậm đà tình ang xóm láng giềng, chia xẻ với nhau những niềm bất hạnh chung. Họ không có sự cư xử của những người đạo đức giả, mà ở họ là chân thực một tình người không đãi bôi không giả dối và sẵn ang đùm bọc nhau khi hoạn nạn.

Nhà văn Nhật Tiến làm việc một cách cẩn trọng và rất cố công để tạo ra những mẫu nhân vật độc đáo, có nét chân thực của đời thường nhưng lại biểu hiện được những cá tính của một thời đại họ đang sống. Ông có lần đã viết về cách tạo dựng nhân vật của mình :

“.. Tôi đã bỏ ra nhiều ngày để nghiền ngẫm về từng nhân vật trong tác phẩm của mình. Ðể cho lề lối làm việc có vẻ khoa học hơn, tôi đã làm những tấm phiếu trên từng tấm bìa nhỏ. Mỗi tấm có đề tên một nhân vật và trong đó tôi đã ghi chép tất cả mọi đặc tính về hình hài, mọi cá tính, thói quen về tâm lý hay tình cảm và hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh xã hội mà tôi muốn diễn tả. Nhờ những tấm phiếu ghi chép này mà hình ảnh mỗi nhân vật hiện ra rõ nét hơn trong thế giới tưởng tượng của tôi và nó đã giúp tôi diễn tả môt cách rõ ang mỗi khi ngồi trước trang giấy. Trong quá trình ang tác tôi luôn luôn tự hỏi điều gì làm cho nhân vật của mình không lẫn lộn với đám đông bình thường và có tính cách nổi bật riêng biệt. Theo tôi đó là sự chú trọng diễn tả thói quen cố hữu của mỗi người, ngôn ngữ đặc trưng mà mỗi nhân vật hay sử dụng và dĩ nhiên mỗi nhân vật phải có một nội tâm riêng biệt do hoàn cảnh xã hội và môi trường chung quanh mà tác phẩm dựng lên..”.

Sau năm 1975, ông ở lại Sài Gòn tới cuối năm 1979 thì vượt biển và định cư ở Hoa Kỳ. Ông cùng với Dương Phục và Vũ Thanh Thủy viết “Hải tặc trong Vịnh Thái lan”, lột trần thảm trạng của thuyền nhân và lên tiếng với cộng đồng quốc tế để can thiệp cho những người tị nạn bất hạnh. Ông tích cực hoạt động trong Ủy Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển và sau đó mới có các tàu đi vớt thuyền nhân ở Biển Ðông và các nước trong thế giới tự do cho phép những người tị nạn định cư ở đất nước thứ ba.



                                                (còn nữa)


0 nhận xét